7 thg 7, 2010
waka waka
Tsaminamina: come.
*
Waka waka: Do it – as in perform a task.
*
Waka is pidgin language (tiếng lai, tiếng bồi): walk while working.
*
Tsaminamina zangalewa: who asked you to come?.
*
Wana: it is mine.
Waka waka: Âm thanh ồn ào với những điểm nhấn phát ra từ bàn xoay kỹ thuật số khi các DJ chơi nhạc. Cũng được sử dụng khi bạn không có gì tốt hơn để nói.
Waka Waka: Còn là âm thanh diễn tả niềm vui và bất ngờ khi một trò vui nổ ra. Từ này xuất hiện lần đầu khi những con rối (The Muppets) do Henson chế tạo và đi biểu diễn.
^_^
28 thg 6, 2010
21 thg 6, 2010
Những pha ăn mừng bàn thắng độc đáo
Hình ảnh những pha ăn mừng độc đáo do The Sun bầu chọn:
|
Điệu robot của Peter Crouch |
|
Rooney làm "thợ cạo" cho John Terry. Đội trưởng ĐT Anh thường cắt tóc tại khách sạn trước trận đấu. |
Paul Gascoigne tại Euro 96. |
Roger Milla với vũ điệu nổi tiếng của các cầu thủ Cameroon tại World Cup 90. |
Jurgen Klinsmann thời còn chơi cho Spurs, ăn mừng bằng cách "nhảy cầu" cùng đồng đội. |
Robbie Fowler của Liverpool với màn hít ma túy để chế giễu CĐV của Everton. |
Vị HLV mới của Newcastle, Alan Shearer tạo "thương hiệu" với kiểu ăn mừng đơn giản: vẫy tay lên phía khán giả. |
Bebeto làm động tác ru con để mừng em bé vẫn còn đang trong bụng mẹ. |
Lua Lua, cựu cầu thủ Newcastle luôn có cách ăn mừng nguy hiểm: lộn salto. |
Craig Bellamy chơi golf trên sân bóng. |
Stephen Ireland cởi quần khoe đồ lót. |
RS
Theo The Sun
20 thg 6, 2010
Những khoảnh khắc tức cười tại World Cup 2010
Trái bóng Jabulani đã bất ngờ xì hơi khi một cầu thủ của Chile nhảy lên đánh đầu (trận đấu Chile - Honduras). |
Một cầu thủ của Nigieria đã phải ’vồ ếch’ khi đuổi theo pha đi bóng của tiền đạo Messi (trận đấu Argentina – Nigieria) |
“Ối.. ! sao lại kéo quần tôi" (trận đấu Nhật Bản – Cameroon) |
“Này cậu đừng có ngã vào tôi vì tay tôi đang bó bột” - Drogba nói (trận đấu Bờ Biển Ngà – Bồ Đào Nha) |
Trung vệ Cannavaro nhắm mắt nhắm mũi cản phá bóng (trận đấu Italia – Paraguay) |
Ronaldo không rời mắt khỏi trái bóng sau pha sút phạt của chính anh (trận đấu Bờ Biển Ngà – Bồ Đào Nha) |
Một tình huống khống chế bóng không thành công của tiền vệ Park Ji-Sung (trận đấu Hàn Quốc – Argentina) |
Vẻ mặt đầy thất vọng của Ribery sau khi ĐT Pháp thất bại cay đắng 0-2 trước Mexico. |
Pha bóng này cho thấy tài năng siêu hạng của Rooney – đánh đầu không cần nhìn (trận đấu Anh - Mỹ) |
17 thg 6, 2010
Các quả bóng World Cup từng thời kỳ
Trong trận chung kết World Cup đầu tiên diễn ra năm 1930, đã có hai trái bóng được sử dụng cho trận đấu vì cả Argentina và Uruguay đều muốn sử dụng bóng của riêng mình. Kết quả là trận đấu diễn ra với bóng của Argentina cung cấp trong hiệp một và của Uruguay trong hiệp hai.
Quá rắc rối. Bắt đầu từ kỳ World Cup sau, nước chủ nhà chính là đội sẽ cung cấp bóng cho toàn giải đấu. Đến World Cup 1970, Hãng Adidas trở thành nhà cung cấp bóng chính thức tại các kỳ World Cup.
Cũng năm này khi World Cup lần đầu tiên được truyền hình trực tiếp, Adidas tung ra quả bóng Telstar 32 múi màu đen và trắng xen kẽ để dễ theo dõi trên tivi đen trắng. Về mặt thiết kể, quả bóng đen trắng truyền thống tồn tại được hai kỳ World Cup.
Đến World Cup 1978, quả bóng vẫn mang hai màu chủ đạo trắng và đen nhưng có hình hoa văn tạo thành những vòng tròn nhỏ trên quả bóng chứ không phải từng mảng đen trắng xen kẽ.
Tại World Cup 1998, thiết kế này vẫn được giữ nguyên nhưng lần đầu tiên không chỉ còn màu trắng đen trên quả bóng. Quả bóng có ba màu, xanh trắng đỏ mang cờ nước Pháp. Trải qua sáu kỳ World Cup, hoa văn này của quả bóng đã chấm dứt.
Bắt đầu từ World Cup 2002, World Cup 2006 và World Cup 2010, quả bóng có những hình vẽ độc lập. Riêng ở World Cup 2006, quả bóng sử dụng cho các trận đấu đều có tên đội thi đấu, tên sân, giờ đấu ...
Tại World Cup 2006 và World Cup 2010, trận chung kết sử dụng quả bóng riêng, có cùng thiết kế và hoa văn, chỉ có điều sẽ khoác lên mình màu vàng.
Thiết kế của quả bóng World Cup có lẽ chỉ mới mang tính đột phá từ năm 2002, trong khi về kỹ thuật những cải tiến không ngừng đã bắt đầu từ năm 1982.
Quả bóng luôn được cải thiện để để đạt một hình cầu lý tưởng. Bước cải tiến bước đầu là quả bóng tại World Cup 1982 khi lần đầu tiên quả bóng không còn thuần da mà còn mang trong mình các hợp chất nhựa tổng hợp. Đây là quả bóng có tính chống nước đầu tiên tại World Cup.
Đến World Cup 1986, Adidas đem đến đột phá lớn khi giới thiệu quả bóng đầu tiên được bao bằng một lớp nhựa. Với công nghệ tiến bộ, quả bóng được làm bằng nhiều lớp vật liệu chồng lên nhau và dần dần những lớp này ngày càng mỏng đi.
Quả bóng tại các World Cup trước 1970
Hai quả bóng sử dụng trong hai hiệp của trận chung kết World Cup đầu tiên. Bên trái là bóng của Argentina và bên phải là của Uruguay |
Quả bóng được sử dụng tại World Cup 1934 |
Quả bóng được sử dụng tại World Cup 1938 |
Quả bóng được sử dụng tại World Cup 1954 |
Quả bóng được sử dụng tại World Cup 1954 |
Quả bóng được sử dụng tại World Cup 1958 |
Quả bóng được sử dụng tại World Cup 1962 |
Quả bóng được sử dụng tại World Cup 1966 |
Trong hai kỳ World Cup 1970 và 1974, quả bóng có những múi đen và trắng xen kẽ nhau.
Quả bóng Telstar tại World Cup 1970 |
Quả bóng Telstar Durlast tại World Cup 1974 |
Từ năm 1978 đến 1998, quả bóng vẫn mang hai màu đen và trắng nhưng được thiết kế theo hoa văn tạo thành những vòng tròn nhỏ trên quả bóng. Riêng năm 1998, quả bóng có đến ba màu xanh đỏ trắng.
Quả bóng Tango Durlast tại World Cup 1978 |
Quả bóng Tango Espana tại World Cup 1982 |
Quả bóng Azteca tại World Cup 1986 |
Quả bóng Etrvsco tại World Cup 1990 |
Quả bóng Questra tại World Cup 1994 |
Quả bóng tại World Cup 1998 |
Từ năm 2002, quả bóng World Cup được thiết kế với những hoa văn khác biệt trên quả bóng.
Quả bóng Fevernova tại World Cup 2002 |
Quả bóng + Teamgeist được sử dụng trong trận chung kết World Cup 2006 (ảnh trên) và trong các trận đấu còn lại (ảnh dưới) Mỗi một quả bóng chính thức tại các vòng chung kết World Cup đều có tên riêng, mang những nét văn hóa, nghệ thuật đặc trưng của nước chủ nhà. Ảnh trên Xinhua.
|
Linh vật qua các kỳ World Cup
Linh vật World Cup xuất hiện lần đầu tiên tại giải VĐTG 1966, ở Anh. Kể từ đó đến nay mỗi kỳ World Cup, nước chủ nhà lại cho ra đời 1 linh vật mang tính biểu tượng văn hóa, chính trị…của quốc gia đó.
Chú sư tử mang cờ nước Anh tên World Cup Willie năm 1966 đã trở thành linh vật đầu tiên của World Cup. Hơn 40 năm qua, linh vật đã trở thành một phần không thể thiếu của ngày hội bóng đá lớn nhất hành tinh.
1) Chú sư tử (tên Willie), một biểu tượng đặc trưng của Anh, đang mặc chiếc áo thi đấu hình lá cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, với dòng chữ WORLD CUP.
2) Hình ảnh một cậu bé đang mặc đồng phục thi đấu của Đội tuyển bóng đá quốc gia Mexico và đội nón rộng vành (sombrero), với dòng chữ MEXICO 70. Tên thân mật của cậu bé là Juan, một cái tên rất phổ biến trong tiếng Tây Ban Nha.
3) Hai chú bé mặc áo đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Đức với dòng chữ WM (tiếng Đức Weltmeisterschaft, World Cup) và con số 74.
4) Một cậu bé mặc đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina. Cái nón (với dòng chữ ARGENTINA ’78), khăn choàng cổ và roi da là những đặc trưng của những cậu bé chăn bò ở những cánh đồng hoang Nam Mỹ.
5) Với hình tượng quả cam, một loại trái cây đặc trưng của Tây Ban Nha, đang mặc đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha. Tên của quả cam xuất phát từ naranja trong tiếng Tây Ban Nha và có nghĩa là "quả cam", cùng với tiếp vị ngữ thân mật "-ito".
6) Trái ớt jalapeño, một món đặc thù trong ẩm thực Mexico, với ria mép và đang đội mũ vành. Tên của nó đến từ picante, trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "ớt" và "cay".
7) Cầu thủ hình cây gậy, với đầu là trái banh và thân là lá cờ tam tài của Italia. Biểu tượng được đặt tên theo câu chào của người Italia.
Một chú chó, mặc đồng phục cầu thủ bóng đá đỏ, trắng và xanh với dòng chữ USA 94.
9) Một chú gà trống con, biểu tượng tiêu biểu cho nước Pháp, với dòng chữ FRANCE 98 trên ngực. Thân của chú gà trống này hầu như toàn màu xanh dương, giống như màu áo của Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp và được đặt tên theo từ kết hợp của football (bóng đá) và tiếp vị ngữ -ix từ Astérix, một nhân vật hoạt hình nổi tiếng.
10) Những sinh vật được tạo nên bởi máy tính với dáng vẻ hiện đại, lần lượt với các màu cam, tím và xanh. Những thành viên tuyển chọn của đội "Atmoball" (một môn thể thao giống bóng đá được hư cấu nên), Ato là huấn luyện viên còn Kaz và Nik là cầu thủ.
11) Chú sư tử (tên Goleo VI) mặc chiếc áo thi đấu của Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức với số áo 06, và một trái banh biết nói.
12) Báo hoa mai Zakumi với mái tóc màu xanh lá cây. Za là tên miền của Nam Phi, còn kumi là mười trong nhiều thứ tiếng châu Phi.
Tên của chú báo này cũng rất có ý nghĩa . Chữ "Za" đại diện cho Nam Phi còn "kumi" nghĩa là số 10. "Zakumi là niềm tự hào của người dân nước chúng tôi và xứng đáng là đại sứ lý tưởng cho kỳ World Cup lần đầu tiên tổ chức ở châu Phi".
Zakumi mang thân hình giống một chú báo với mái tóc màu xanh, tượng trưng cho màu xanh trên sân bóng. Linh vật này được cho là ra đời năm 1994, trùng với thời gian đất nước Nam Phi thoát khỏi chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid.