Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn khám phá thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn khám phá thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng

16 thg 6, 2010

10 thác nước nổi tiếng nhất trên thế giới

10 thác nước nổi tiếng nhất trên thế giới

Thác nước được tạo ra do một dòng nước đang chảy đột ngột đổ xuống do sự đứt gãy bề mặt. Dưới đây là 10 thác nước phổ biến nhất trên thế giới.

1. Thác Angel:


Là thác nước cao nhất trên thế giới với độ cao 979 m, với độ cao nước chảy tự do là 807 m. Thác nước này nằm ở khu công viên quốc gia Canaima, đông nam Venezuala, trên con sông Churún, một nhánh của sông Carrao trên đỉnh Auyan Tepui - vốn được mệnh danh là Ngọn núi của Quỷ dữ. Độ cao của thác đã "xoá tan" dòng nước trước khi nó chạm mặt đất và những cơn gió mạnh biến nó thành một màn sương mù. Bạn sẽ không thể nhìn thấy thác nước trong một ngày đầy mây. Trong mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 3), có rất ít nước trên con sông Churún.

2. Thác Iguazu


Nằm trên con sông Iguazu giữa biên giới tỉnh Paraná của Brazil và tỉnh Misiones của Argentina. Theo tiếng Guarani, Iguazu có nghĩa là "dòng nước lớn".
Hệ thống thác nước gồm có khoảng 270 thác trên quãng đường dài 2,7 km. Một số ngọn thác đổ xuống từ độ cao 82 m, nhưng phần lớn trong số chúng có chiều cao 64 m. Garganta del Diablo - một vách đá hình chữ U rộng 150 m và dài tới 700 m, là ngọn thác hùng vĩ hơn tất cả, nó nằm giữa biên giới Argentina và Brazil. Phần lớn ngọn thác thuộc Iguazu nằm bên phần lãnh thổ của Argentina. Khoảng 900 m trong tổng chiều dài 2,7 km là những hòn đảo nằm xen kẽ trong lòng thác nước.
Chỉ có thác Victoria là lớn hơn thác Iguazu. Iguazu rộng hơn nhưng nó có khá nhiều hòn đảo lớn. Nước của hệ thống thác Iguazu đổ xuống bề mặt rộng khoảng 400.000 m2 (trong khi đó, thác Victoria là khoảng 550.000 m2).

3. Thác Victoria hay còn gọi là Mosi-oa-Tunya



Là thác nước lớn nhất trên hành tinh. Với độ rộng 1,7 km và chiều cao 108 m, Victoria là "tấm rèm nước" lớn nhất trên thế giới ngăn cách Zambia và Zumbabwe.
Bạn có thể ngắm nhìn toàn bộ con thác từ khoảng cách gần nhất là 60 m do toàn bộ con sông Zamberi đổ xuống một vực thẳm hẹp và sâu.
Hai hòn đảo trên ngọn thác đủ rộng để chia đôi tấm rèm nước này: hòn đảo Boaruka (hay còn được gọi là Cataract) gần bờ tây và Livingstone gần khu trung tâm. Vào mùa khô từ tháng 9 đến tháng 1, một số hòn đảo nhỏ cũng có cơ hội xuất hiện. Đỉnh điểm của mùa khô là vào tháng 11, khi đó, lượng nước của con thác chỉ bằng khoảng 10% so với lượng nước hồi tháng 4. Victoria là ngọn thác có sự biến đổi lượng nước lớn nhất so với các ngọn thác lớn khác.
Victoria "xinh đẹp" nhất là vào khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 8, ngọn thác mờ trong sương, chắc chắn sẽ đem lại cho người xem những khoảnh khắc ấn tượng nhất trong đời.

4. Thác Niagara



Gồm có 3 thác nước riêng biệt (một ở Canada và 2 ở Mỹ): Thác Canadian Horseshoe (Móng ngựa Canada - ở Canada), thác American, và một ngọn thác nhỏ hơn có tên Bridal Veil. Thác Niagara cách Buffalo, phía tây New York, 27 km và cách thành phố Toronto, Ontario của Canada tới 120 km.
Hòn đảo Goat chia dòng sông Niagara và kết quả là tạo ra 3 ngọn thác riêng biệt: Horseshoe ở phía tây và American và Bridal Veil ở phía đông.
Mặc dù không có chiều cao đặc biệt nhưng thác Niagara rất mạnh. Với hơn 168.000 m3 nước đổ xuống mỗi phút từ ngọn và trung bình là 110.000 m3, Niagara là ngọn thác mạnh nhất ở Bắc Mỹ.
Horseshoe đổ xuống từ chiều cao 52 m, trong khi đó, American chỉ có chiều cao 21 m. Horseshoe rộng 792 m và American rộng 323 m.

5. Thác Yosemite



Là ngọn thác cao nhất ở Bắc Mỹ (xếp thứ 6 trên thế giới) nằm ở công viên quốc gia Yosemite trên dãy núi Sierra Nevada (California) thuộc nhánh sông Yosemite. Thác Yosemite có chiều cao 739 m.

6. Thác Tugela



Là ngọn thác cao thứ 2 trên thế giới, thuộc sông Tugel. Toàn bộ con thác đổ xuống từ độ cao 947 m. Thác Tugela toạ lạc trên dãy núi Drakensberg thuộc vườn quốc gia Royal Natal ở tỉnh KwaZulu-Natal, Cộng hoà Nam Phi.

7. Thác Rhine


Là thác nước trên địa hình khá bằng phẳng lớn nhất ở châu Âu, nằm trên dòng sông High Rhine ở bắc Thuỵ Sĩ, gần biên giới với Đức. Nó rộng 150 m nhưng chỉ cao có 23 m. Trong những tháng mùa đông, lưu lượng nước trung bình của ngọn thác này là 250 m3/s, trong khi đó, vào mùa hè, con số này lên tới 600 m3/s

7. Thác Ramnefjellsfossen



là thác nước cao thứ 3 trên thế giới với 818 m

9. Cascata delle Marmore



Là thác nước nhân tạo cao nhất trên thế giới. Đây là ngọn thác do đế chế Roma cổ đại tạo nên với tổng chiều cao là 165 m.
Ngọn thác này nằm cách Terni, Umbria, Italy 7 km. Nó thuộc một nhánh sông Velino. Dòng chảy của ngọn thác này được điều khiển theo một lịch trình có sẵn nhằm phục vụ cho mục đích du lịch hoặc theo mục đích của công ty điện. Khi những cái cửa được mở ra, ngọn thác này sẽ tràn ngập nước.

10. Thác nước Gocta


Một thác nước đã được người dân thuộc tỉnh Chachapoyas, Peru (cách 700 km về phía đông bắc Lima) nằm trong khu vực rừng Amazon nhưng nó lại mới được khám phá năm 2005. Tổng chiều cao của ngọn thác này là 771 m.

10 ngôi đền gây ngạc nhiên nhất trên thế giới

10 ngôi đền gây ngạc nhiên nhất trên thế giới

Hơn ¼ dân số trên thế giới theo tôn giáo Phương Đông, gồm có Đạo Phật, Đạo Ấn, Đạo Likh và Đạo Lão. Những người này có mặt trong những ngôi đền, về mặt kiến trúc mang dáng vẻ lạ lùng và đặc biệt của rất nhiều tôn giáo khác nhau. Từ sự đổ nát của ngôi đền Ankor Wat đến Wat Rong Khun hiện đại, đã xuất hiện hàng trăm hàng nghìn những ngôi đền đáng ngạc nhiên trên thế giới.

1. Tiger’s Nest Monastery

Ngôi đền mang trên Tiger’s Nest Monastery (tu viện ẩn náu của hổ), nằm bấp bênh trên bờ vực của một vách đá nhô ra biển có độ cao 914,4m nằm trong thung lũng Paro, là một trong những nơi linh thiêng nhất ở Bhutan. Truyền thuyểt nói rằng, Guru Rinpoche, Đức phật thứ hai đã bay lên trên bờ vực này trên lưng của một con hổ cái và sau đó ở đó trầm tư trong một chiếc hang ngày nay được bao vây bởi các bức tường của ngôi đền này.

Ngôi đền này thường được người ta gọi với cái tên Taktshang Goemba, được xây dựng vào năm 1692 và xây dựng lại vào năm 1998 sau khi nó rơi vào một vụ hỏa hoạn. Ngày nay, ngôi đền này như là một nơi ẩn dật và hạn chế với những khách du lịch thông thường.



2. Wat Rong Khun

Wat Rong Khun nằm ở Chiềng Mai, Thái Lan là một ngôi đền khác biệt với bất kỳ ngôi đền nào trên thế giới. Cấu trúc trang trí công phu và toàn màu trắng được mạ những hình khảm phản chiếu ánh sáng mặt trời một cách kỳ diệu, được xây dựng theo một phong cách hiện đại rõ rệt. Đây chính là sản phẩm trí tuệ của nghệ sỹ người Thái lừng lanh mang tên Chalermchai Kositpipat.

Thực sự, ngôi đền vẫn còn đang được hoàn tất xây dụng. Chalermchai hy vọng rằng khoảng 90 năm nữa, ngôi đền sẽ hoàn thành, trở thành ngôi đền phật giáo tương đương với nhà thờ Sagrada Familia ở Barcelona, Tây Ban Nha.


3. Prambanan

Prambanan là một ngôi đền Hindu nằm ở trung tâm của Java, Inđônêxia. Ngôi đền này được xây dựng vào năm 850 sau Công Nguyên và được xây dựng nên với 8 chiếc điện thờ chính và hơn 250 chiếc nhỏ ở xung quanh.

Gần như tất cả các bức tường của ngôi đền được trang trí với những hình khắc phù điêu tinh tế, thuật lại những câu chuyện về sự hóa thân của Vishnu, cuộc phiêu lưu của Hanuman, vị vua trẻ tuổi và thiên anh hùng ca Ramayana và những truyền thuyết khác.

Mặc dù không phải là ngôi đền lớn nhất ở Inđônêxia (sau ngôi đền Borobudur), Prambanan trang hoàng thêm cho nó vẻ đẹp và vẻ thanh nhã bù đắp cho sự thiếu sót về kích cỡ.



4. Ngôi chùa Shwedagon

Không ai biết chính xác ngôi chùa Shwedagon ở Mianma được xây dựng từ khi nào. Theo truyền thuyết nó đã có 2500 trước đây mặc dù những nhà khảo cổ học ước tính rằng nó được xây dựng vào khoảng thể kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 10.

Ngày nay, khi bất cứ ai nhắc đến “ngôi đền vàng”, có nghĩa rằng họ muốn ám chỉ cấu trúc ngôi đền được dát màu vàng. Tuy nhiên, ở Shwedagon, được dát vàng theo nghĩa đen có nghĩa là được dát vàng thực sự. Vào thế kỷ 15, một vị nữ hoàng của người Môn đã ban tặng cho ngôi chùa này số lượng vàng bằng chính trọng lượng của bà. Truyền thống này vẫn còn được tiếp diễn cho đến tận ngày nay, nơi những người hành hương thường tiết kiệm trong rất nhiều năm để mua những gói lá vàng nhỏ để dính vào các bức tường trong ngôi chùa.

Vì rằng chẳng biết bao nhiêu vàng cho đủ, chiếc chóp của tháp chứa hài cốt các vị sư và mái vòm được dát với trên 5000 viên kim cương và 2000 viên đá hồng ngọc. Ngôi chùa này sở hữu một trong những thánh tích linh thiêng nhất của Đạo Phật: đó chính là 8 sợi tóc của Phật.


5. Ngôi đền trời

Ngôi đền trời chính là một ngôi đền đạo Lão nằm ở Bắc Kinh, thủ đô Trung Quốc. Ngôi đền được xây dựng vào thế kỷ 14 dưới thời Minh, là ngôi đền dành riêng cho ông, nơi ông có thể cầu nguyện những điều tốt đẹp cho mùa màng và chuộc lỗi lầm của mình đã gây ra cho nhân dân.

Kiến trúc của ngôi đền hết sức thú vị: mọi thứ trong ngôi đền đều tượng trưng cho trời, là những hình tròn trong khi những mặt thấp hơn đại diện cho Đất, đều là hình vuông.



6. Ngôi đền Chion-in

Ngôi đền Chion-in được xây dựng vào năm 1234 sau Công Nguyên nhằm để ca ngợi người sáng lập ra đạo Phật, một thầy tu có tên là Honen, người đã nhịn đói mà chết trong hoàn cảnh khó khăn. Tổng thể ngôi đền có 21 tòa nhà tuy nhiên do động đất và hỏa hoạn, nó nhà tồn tại lâu đời nhất là tòa nhà được xây từ thế kỷ 17.

Những khách tham quan ngôi đền Chhion-in cần phải đi qua chiếc cổng lớn nhất ở Nhật: Chiếc cổng Sanmon có hai tầng. Chiếc chuông của ngôi đền này cũng là một kỷ lục: nặng 74 tấn là cần đến 17 vị hòa thượng rung chuông trong lễ đón mừng năm mới.

Một đặc điểm thú vị khác của ngôi đền Chion-in chính là chiếc sàn nhà “biết hát” của căn phòng lớn. Được người ta gọi với cái tên sàn nhà uguisu-bari hay sàn nhà chim sơn ca, tấm ván bằng gỗ được thiết kế để tạo nên tiếng kêu cọt kẹt cho mỗi bước đi nhằm báo hiệu cho các vị hòa thượng nhận ra những người đột nhập.



7. Borobudur

Vào thế kỷ 19, những người xâm chiếm Inđônexia người Hà Lan đã tìm thấy một đống đổ nát vui sâu dưới rừng nhiệt đới Java. Những gì họ phát hiện thấy là một khu tổng thể Borobudur, một kiến trúc khổng lồ được xây dựng với gần 55.000 m3 đá. Ngôi đền có gần 2700 tấm chạm khắc nổi và 504 bức tượng Phật.

Cho đến tận ngày nau, không ai biết chắc chắn rằng khi nào và tại sao nó được xây dựng, hoặc nguyên nhân của việc bỏ rơi ngôi đền này hàng trăm năm trước. Một vài nhà nghiên cứu cho rắng Borobudur thực sự là một kho tàng sách phật giáo khổng lồ, những bức phù điêu kể lại những câu chuyện về cuộc đời của Phật và những nguyên tắc trong việc dạy học của ông. Để “đọc”, một người du hành cần phẩi đi qua 9 chiếc thềm và đi bộ một đoạn đường dài trên 2 dặm.



8. Ngôi đền vàng

Harmandir Sahib hay còn gọi là ngôi đền vàng nằm ở Punjab, Ấn Độ là nơi linh thiêng nhất của đạo Sikh. Đối với người Sikh, ngôi đền vàng tượng trưng cho sự tự do vô bờ bến và sự giải thoát trong linh hồn con người.

Ngôi đền này được xây dựng bắt đầu từ một chiếc hồ nhỏ, chiếc hồ yên tĩnh khiến cho Phật đến nơi đây để suy ngẫm. Hàng nghìn năm sau, Guru Nanak, người sáng lập ra đạo Sikh cũng đã sống và dành thời gian suy ngẫm ở nơi đây.

Công việc xây dựng ngôi đền vàng bắt đầu vào những năm 1500, khi vị Guru thứ 4 của đạo Sikh đã mở rộng chiếc hồ này ra trở thành một chiếc hồ lớn chứa nước thần thánh khiến người ta bất tử, xung quanh đó là ngôi đền và thành phố. Ngôi đến được trang trú với những hình khắc cẩm thạch, mạ vàng và được phủ bằng đá quý.



9. Ngôi đền Sri Ranganathaswamy

Ngôi đền Sri Ranganathaswamy nằm trong thành phố Tiruchirapalli của Ấn Độ, là ngôi đền Hindu quan trọng lớn nhất trên thế giới (Ankor là ngôi đền lớn thứ hai).

Ngôi đền này được xây dựng cho Vishnu, một trong ba vị thần trong đạo Hindu. Truyền thuyết kể rằng, trước kia, một nhà hiền triết đã đến nơi đây và đặt một bức tượng của Vishnu dựa trên một con rắn lớn. Khi ông chuẩn bị bắt đầu chuyến đi của mình, ông đã phát hiện thấy rằng bức tượng không thể di chuyển được, và vì thế một ngôi đền nhỏ đã được xây dựng ở đó. Qua nhiều thế kỷ, ngôi đền càng ngày càng trở nên to lớn hơn rất nhiều so với kích cỡ ban đầu của nó.

Tổng thể ngôi đền rất đồ sộ: Nó bao quanh một khu vực rộng khoảng 63 ha với 7 bức tường đồng tâm, bức tường phía ngoài cùng có chiểu dài khoảng 4 km.

Ngôi đền Sri Ranganathaswamy rất nổi tiếng vì lối ra vào ở dưới những kim tự tháp đầy màu sắc. Ngôi đền có 21 lối đi tổng thể, lối đi lớn nhất có 15 tầng và có độ cao gần 60m.



10. Ăng-co Vát, Ăng-co Thom và Bayon

Ngôi đền thường đi vào lịch sử và tín ngưỡng, tinh thần của rất nhiều tiểu thuyết cũng như những bộ phim hành động của Hollywood đó chính là ngôi đền mang tên Ăng-co Vát.

Ăng-co Vát được xây dựng vào đầu thế kỷ 12 ở Campuchia. Ngôi đền nổi tiếng nhất thế giới này là ngôi đền Hinđu đầu tiên, xây dựng cho Vishnu. Vào thế kỉ 14, 15, khi đạo phật được truyền bá rộng khắp ở Châu Á, nó trở thành một ngôi đền Phật giáo.

Thế giới phương Tây cũng đã biết đến ngôi đền này khi một vị hòa thượng người Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16 đã đến thăm ngôi đền và đã hùng hồn miêu tả nó như “một công trình xây dựng phi thường mà không bút nào tả được, đặc biệt là nó không giống với bất kỳ ngôi đền nào trên thế giới. Ngôi đền này có những chiếc tháp nhọn, những hình trang trí và tất cả những chọn lọc tinh tế mà trí tuệ con người có thể tưởng tượng ra”. Những lời nói của ông vẫn còn vang vọng đến tận ngày nay.

Khách du lịch khi tham quan Ăng-co Vát thường đến thăm Ăng-co thom và Bayon, hai ngôi đền rất lớn từng là thủ phủ của đế chế Khơ-me.



Ăng-co vát



Ăng-co Thom



Bayon

15 thg 6, 2010

Bảy kỳ quan thiên nhiên của châu Phi

Bảy kỳ quan thiên nhiên của châu Phi

Trong khi nhân loại có 7 kỳ quan thế giới thì châu Phi cũng có 7 địa danh nổi tiếng. Chúng bao gồm sông Nile, núi lửa Kilimanjaro, thung lũng Great Rift, cánh đồng Serengeti, sa mạc Sahara, hồ Victoria và núi Bàn.
1. Sông Nile nile.jpg
Sông Nile gồm 3 đoạn có màu nước khác nhau, được gọi là sông Nile trắng, Nile xanh và Nile chính. Khởi nguồn từ Burundi (Rwanda - Trung Phi) sông này chảy vào hồ Victoria, tại biên giới Uganda - Tanzania và Kenya. Từ hồ này, một nhánh chảy vào Sudan đến thủ đô Khartoum, được gọi là Nile trắng. Cũng từ hồ này, một nhánh khác chảy qua xứ Ethiopia vòng đến Khartoum, gọi là Nile xanh. Và từ đây được gọi là Nile chính, tiếp tục chảy qua Sudan, Ai Cập rồi đổ vào Địa Trung Hải.
Tổng chiều dài từ đầu nguồn là 6.671 km. Toàn bộ lưu vực sông rộng 3.349.000 km2. Từ thời xa xưa, dòng sông đã đem lại phù sa cho hai bên bờ, tạo nên vùng châu thổ lớn của Ai Cập. Hai bờ sông Nile, nhất là tại Ai Cập và Sudan, đã là một trong những cái nôi quan trọng của nền văn minh nhân loại.
2. Núi lửa Kilimanjaro kilimanjaro.jpg

Còn gọi là núi lửa cô đơn, vì không ở trong một quần thể như những vùng núi lửa khác. Núi này cao 5.895 m, là một trong những ngọn núi lửa dễ trèo nhất thế giới. Vùng chân núi là những cánh đồng bát ngát trồng chuối hoặc cà phê. Sườn núi là rừng cây cao 7-10 m. Từ 3.000 m trở lên lại là những đồng cỏ, bụi cây. Lác đác đó đây, người ta có thể gặp một vài con voi khoan thai kiếm ăn. Từ 4.000 m lên cao nữa là vùng khí hậu khắc nghiệt, chỉ có các loài rêu và dương xỉ.
Đỉnh núi phủ băng tuyết, có 3 miệng núi lửa, miệng rộng nhất có đường kính hơn 2 km. Kilimanjaro là núi lửa lớn nhất châu Phi và cũng đứng trong nhóm những núi lửa lớn, đẹp nhất thế giới.
3. Thung lũng lớn do vết nứt trái đất (The Great Rift Valley) great-rift[1].jpg
Cách đây 20 triệu năm, vỏ trái đất còn yếu, đã tách tạo ra một vết nứt từ tây nam châu Á chạy dài đến Đông Phi. Trên lục địa châu Phi, vết nứt trải dài hàng nghìn cây số từ bờ tây nam Hồng Hải xuyên qua các quốc gia Ethiopia, Kenya, Tanzania, Malawi, đến hạ lưu sông Zambezi ở thung lũng Mozambique. Có nơi thung lũng này rộng hơn 100 km, nơi hẹp nhất là 45 km, hai bên là vách núi lởm chởm đá tai mèo. Có nơi vách núi cao gần 2.000 m, nơi thấp nhất cũng gần 600 m.
Trong suốt chiều dài hàng nghìn cây số, thung lũng này có vô số suối nước nóng và rất nhiều hồ nhỏ có cá và các loại tảo. Hàng triệu loài chim họp đàn bay về đây tìm thức ăn.
4. Sa mạc Sahara sahara.jpg
Đây là nơi nóng nhất trên trái đất, có nơi nóng đến 57,7 độ C. Với diện tích 9 triệu km2, sa mạc Sahara chạy dài 5.000 km từ đông sang tây Phi, bao gồm Mauritania, Morocco, Algeria, Tunisia, Lynia, Ai Cập, Sudan, Niger và Mali.
Trên sa mạc mênh mông này, chỉ có khoảng 200.000 km2 là những ốc đảo phì nhiêu có trồng chà là và một vài loài cây ăn trái. Những ốc đảo này ở dưới mực nước biển. Nếu không có chúng, việc băng ngang Sahara không thể thực hiện được.
Sahara chiếm 1/3 diện tích châu Phi, gần bằng diện tích nước Mỹ, không có biên giới nhất định. Qua ảnh vệ tinh có thể nhận thấy có thời kỳ Sahara lan rộng vì nắng hạn lớn nơi vùng ven, cũng có thời kỳ vùng ven xanh tươi hơn và Sahara có phần thu hẹp lại.
5. Cánh đồng linh dương Serengeti Serengeti.jpg

Cánh đồng Serengeti còn được gọi là đồng của linh dương. Tuy cùng họ dê, nhưng đầu của loài linh dương này giống đầu bò, có con nặng cả tấn. Đồng linh dương ở phía bắc Tanzania giáp với Kenia và hồ Victoria, nổi tiếng vì có nhiều loài thú dữ, sư tử, cá sấu, có cả ngựa vằn, nhưng đông nhất là linh dương đầu bò.
Từng đàn linh dương, ngựa vằn kéo thành đàn có khi dài đến 50 km, trở đi trở lại trên quãng đường 800 km theo chiều dài Bắc Nam để kiếm ăn theo mùa. Linh dương bơi chậm, chạy không nhanh. Trên đường đi, chúng là mồi ngon cho cá sấu và sư tử. Để bù đắp dân số, linh dương có sức sinh sản rất nhanh. Con cái chỉ mang thai trong 3 tháng. Sau khi sinh ra được 7 ngày, linh dương con đã đứng vững và đi theo mẹ. Con nào yếu ớt không đứng vững thì bị bỏ rơi và cả đàn cứ tiếp tục đi.
6. Hồ Victoria victorya.jpg
Với diện tích 69.000 km2, chu vi 3.440 km, Victoria là hồ nước ngọt lớn nhất châu Phi và thứ nhì thế giới. Hồ nằm trong vùng thuộc biên giới các quốc gia Uganda, Kenya và Tanzania. Nửa phía bắc thuộc Uganda, nửa phía nam thuộc Tanzania, và một phần đông bắc thuộc Kenya.
Nhiều đảo nhỏ trên hồ có thắng cảnh đẹp, là nơi du lịch và an dưỡng. Quanh hồ có nhiều di tích tiền sử cho thấy vào thời xa xưa nơi đây đã có sinh hoạt nông nghiệp.
7. Núi Bàn table_mountain_3[1].jpg
Đỉnh núi bằng phẳng như một cái bàn rất lớn. Núi Bàn ở ngoài khơi Cape Town (mỏm tận cùng của Nam Phi). Có rất nhiều con đường với nhiều cảnh đẹp dẫn lên mặt bàn khổng lồ trên cao 1.086 m, nhưng du khách vẫn thường đến đây bằng cáp treo trong vài phút.
Mặt bằng đỉnh núi rất rộng, có nhiều nhà hàng. Trên này rất lạnh, hiếm khi trời quang đãng, thường có những màn mây phủ. Du khách lên đây như sống trong cảnh nửa thực nửa mơ. Quanh đỉnh núi, có loài chuột lang gần giống những chú voi tí hon nằm phơi mình trên các tảng đá chờ du khách cho ăn.
Tổng hợp

Vườn treo Babylon


Vườn treo Babylon thực ra không hề được treo lên theo đúng nghĩa bởi các loại dây, mà được bắt nguồn từ việc dịch không chính xác từ 'kremastos' trong tiếng Hy Lạp hay từ 'pensilis' trong tiếng La tinh, vốn không chỉ mang nghĩa là "treo” mà là "nhô ra ở trên," như trường hợp một sân thượng hay một ban công.

Vườn treo Babylon hay còn được gọi là vười treo Semiramis hiện nay thuộc Iraq, từng là một trong Bảy kỳ quan của thế giới. Theo những miêu tả, các vườn treo được xây dựng nên để cho bà vợ của Nebuchadnezzar là Amyitis khuây nỗi nhớ quê hương. Amyitis là con gái vua Cyaxares xứ Medes, đã cưới Nebuchadnezzar để tạo nên một liên minh giữa hai nước.


Một miêu tả từ thế kỷ 16 về Vườn treo Babylon
(bởi Martin Heemskerck). Ảnh: Wikipedia



Cổng vườn treo Babylon



Vườn treo Babylon ngày nay

Kết cấu của vườn treo Babylon này được xây dựng trên một ngọn tháp 4 tầng, có các mái hình vòm. Các tầng trên được dựng lên bởi các cột, khu vườn có bãi đất tạo thành hình bậc thang như một nhà hát với các công trình nhỏ hoà quyện bện trong. Với những lớp đất dầy để có thể trồng cây, Các cột, vòm, và các sân thượng được xây dựng bằng gạch nung và nhựa đường. Ngày nay vườn treo Babylon chỉ còn lại phần móng mà thôi.


Lam Dương (sưu tầm)
Kỳ quan thế giới này được NebuchADnezzar xây dựng vào khoảng năm 605-562 TCN. Ông coi đó như một món quà dành cho người vợ, một người đã trưởng thành trong vùng đất quanh Media, khao khát cảnh núi rừng hùng vĩ.
Vườn treo Babylon.
Vườn treo Babylon.
Những đường rãnh hùng vĩ cùng các vòi phun nước theo phong cách boroque treo lơ lửng trên các mái vòm đan xen nhau, điều tuyệt diệu trong phong cách núi rừng của đất nước Iran được chuyển về vùng đồng bằng Mesopotamia ảm đạm - Vườn treo Babylon kết hợp trình độ bậc thầy về kỹ thuật với giấc mộng trữ tình. Không như Bảy kỳ quan nguyên thuỷ khác, Vườn treo là một công trình không chỉ dành cho vinh quang mà cho tình yêu - một tình nhân tuyệt vời do một quân vương xây dựng để thỏa lòng nhớ nhung người vợ ở quê nhà. Đây là một câu chuyện thật quyến rũ, nhưng có phải là ảo tưởng không? Có phải NebuchADnezzar và Amyitis đã sánh bước bên nhau tản bộ dọc theo những lối đi đầy bóng mát này? Đây có phải là nơi Alexander Đại đế đã chết trong khi cố gắng một cách tuyệt vọng để làm giảm cơn sốt rét đang hành hạ?
Mô tả thời cổ đại
Sử gia có uy tín, người đầu tiên đề cập đến vườn treo là Berossus, một người dân thành Babylon đã viết về vườn treo vào khoảng năm 270 TCN. Ông kể rằng, NebuchADnezzar (605-562 TCN) xây một cung điện mới trong 15 ngày, nền móng bằng đá hay các bãi đất có hình bậc thang tựa như phong cảnh núi rừng. Theo lời Berossus, cây cối được trồng tại đây, cái được gọi là vườn treo, nhằm làm vui lòng một vị hoàng hậu.
Câu chuyện này không có gì phải ngờ vực. Các đồng minh thời cổ đại thường được chính thức công nhận bằng một đám cưới hoàng tộc và chính điều này chắc hẳn NebuchADnezzar đã kết hôn cùng một công chúa xứ Ba Tư (Iran). Một trong số những thành tích của NebuchADnezzar, theo Berossus biết, mô tả cung điện mới của nhà vua như sau: cung điện cao như núi, một phần xây dựng bằng đá, nghe nói chỉ trong 15 ngày là hoàn tất. Không nêu cụ thể một khu vườn nào cả, nhưng các cung điện chỉ chăm sóc có một khu vườn.
Cổng vào vườn treo Babylon.
Cổng vườn treo Babylon.
Người Hy Lạp về sau bổ sung thêm nhiều chi tiết. Một giả thuyết kể rằng khu vườn rộng 120 m2, chiều cao của bức tường thành cao khoảng 25 m. Khu vườn có bãi đất tạo hình bậc thang như một nhà hát, với các công trình nhỏ hòa quyện bên trong. Phần nền xây nhiều vách tường, mỗi vách rộng khoảng 7 m và cách nhau 3 m, để đỡ các dầm bằng đá. Phía trên dầm là ba lớp riêng biệt - sậy đặt trong lớp nhựa đường, hai lớp đá xây bằng gạch, và lớp vỏ ngoài cùng làm bằng chì. Đất trong khu vườn đặt ở trên cùng, nước tưới cây lấy từ các cỗ máy ngụy trang hút nước từ con sông chảy bên dưới.
Một giả thuyết thứ hai cho rằng, có đến 20 vách tường chống. Một giả thuyết thứ ba lại kể khu vườn nằm trên các mái cong dạng vòm xây bằng gạch và nhựa đường: các đinh vít kiểu Archimede nằm dọc theo cầu thang cung cấp nước. Một mô tả khác cho rằng có một công trình phụ gồm các cột bằng đá đỡ các dầm bằng gỗ: dầm làm bằng thân cây cọ. Thay vì bị mục rữa, đã mang chất bổ đến nuôi dưỡng rễ cây trồng trong khu vực treo ở phía trên, toàn bộ khuôn viên được tưới tiêu bằng một hệ thống gồm các vòi phun nước và máng dẫn thiết kế thật tài tình.
Khu vườn ở đâu?
Vì có những mô tả trái ngược nhau, một số tỏ ra ngờ vực liệu vườn treo có thật hay không. Tuy không có một đề cập đến bất cứ đặc điểm kiến trúc nào, ngoại trừ các thân cây không bị mục rữa, quả đáng ngạc nhiên. Du khách Hy Lạp chắc hẳn đã chứng kiến việc đưa cây cối lên cao, và chúng ta có thể tìm kiếm những gì còn lại trong đống đổ nát hiện tại theo cách hợp pháp. Nhưng thật không may, các cung điện ở Babylon đã bị những người háo hức tận dụng những viên gạch nung tráng lệ tàn phá hàng ngàn năm trước. Ngày nay chỉ còn lại phần nền móng mà thôi.
Những người thám hiểm ban đầu tìm kiếm các khu vườn trong Cung điện mùa hè trên cao, diện tích khoảng 180 m2, cùng với việc kết hợp các giếng nước công phu, nhưng vẫn không đủ không gian dành cho các bãi đất hình bậc thang và cây cối. Một nhà khảo cổ đã xác định vị trí của khu vườn nằm phía trên một số mái cong dạng vòm mà ông phát hiện nằm ở Cung điện phía Nam, lại một lần nữa cũng có các giếng nước, cái mái dạng vòm còn là nền móng của một khu vực hành chánh, cũng có thể là một nhà lao.
Bất kỳ ai tìm kiếm mặt bằng tầng trệt thuộc khu vực cung điện sẽ nhận thấy các cung điện phía Bắc và phía Nam nằm bên sườn hướng Bắc và Tây, gắn với Euphrates, bằng các công trình nào trong số này cũng đều có các khu vườn tạo hình bậc thang, có lẽ gây ấn tượng nhất là công trình phụ phía Tây. Phần bao quanh này, có diện tích khoảng 190 x 80 m, với các tường ngoài rộng khoảng 20 m, làm bằng gạch đặt trong lớp nhựa đường. Có nhiều căn phòng ở đầu phía Bắc, trong khi ở đầu phía Nam có một góc hình vuông, có lẽ cầu thang đặt trong một góc. Trong công trình độc đáo này, có thể người ta đã tạo hình một khu vườn hình vuông, gần bằng với kích thước yêu cầu, với các ngôi nhà nghỉ trong mùa hè cùng một khu núi non bộ tạo hình bậc thang.
Nhưng vấn đề này chỉ được giải quyết qua những cuộc khai quật gần đây hoặc bằng một số tư liệu chưa tìm thấy từ thời vương triều Nebuchadnezzar. Cho đến lúc này, chúng ta có thể hình dung Vườn treo có các mái dạng vòm và vòi nước hoặc bằng bất cứ hình ảnh nào trong trí tưởng tượng.
(Theo 70 kỳ quan thế giới cổ đại)

Mũi Hảo vọng - nơi đẹp mà không dễ qua


Mũi Hảo vọng - nơi đẹp mà không dễ qua

Năm 1486, nhà hàng hải nổi tiếng người Bồ Đào Nha Batorluomei Bird Diast vâng lệnh vua Ruo Ao đệ II, thống lĩnh một đoàn thuyền xuất phát từ Lisbon đi dọc theo bờ biển phía tây châu Phi, với ý đồ có thể khám phá một con đường mới thông với “đất nước vàng” Ấn Độ. Khi đoàn thuyền đi đến vùng giáp nước của Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương và mặt nam của đại lục châu Phi thì trên mặt biển gió bão gào thét. Sóng dữ vạn trượng nổi lên. Đoàn thuyền lắc lư chao đảo trong sóng to gió lớn. Các thuyền viên có cảm giác như họ sắp xuống suối vàng, sắp chôn mình trong bụng cá.

Lúc này, một đợt sóng gió đẩy đoàn thuyền đến mũi đất vô danh, nhờ vậy mới tránh được tai vạ. Diast và các thuyền viên khác hoàn hồn trấn tĩnh, họ chúc mừng nhau và đặt cho mũi đất này là Mũi Bão táp.

Mũi Hảo vọng.

Đoàn thám hiểm thoát chết nhưng vẫn còn sợ hãi. Họ men theo đường cũ, trở về Bồ Đào Nha, kể lại sự nguy hiểm của mũi Bão táp cho quốc vương nghe. Nhà vua muốn thủ lợi cho mình, nghĩ rằng nếu vượt qua được mũi Bão táp, đến vùng phương Đông giàu có thì sẽ có rất nhiều hy vọng và lại đổi tên mũi đất này thành Mũi Hảo vọng (Cape/Good Hope).

Năm 1497, một nhà thám hiểm Bồ Đào Nha khác là Da Gama dẫn một đoàn vòng qua được mũi Hảo vọng thành công, đi vào Ấn Độ Dương và đến Calicut bên bờ nam Ấn Độ Dương. Sau đó, họ mang về nhiều thứ quý giá như vàng, hương liệu tơ lụa từ Ấn Độ về Bồ Đào Nha. Việc phát hiện ra con đường mới vòng qua mũi Hảo vọng, kể cả việc phát hiện ra đại lục châu Mỹ của Colombo năm 1492 và lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới của Magienlăng cùng một số nhà đồng hành của ông vào 1519-1522, lịch sử gọi là Những phát kiến địa lý. Điều này không chỉ mở rộng được tầm nhìn địa lý của người châu Âu, mà còn có ảnh hưởng rất lớn đối với nền chính trị, kinh tế, văn hoá của họ.

Mũi Hảo vọng trong giống như “người lính” đứng canh nơi trọng yếu, trấn giữ tuyến đường xung yếu giữa Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương. Trước khi kênh đào Suez được xây dựng năm 1869, mũi Hảo vọng là con đường lưu thông duy nhất trên biển giữa châu Âu và châu Á. Tuy nhiên, chỉ có tàu cỡ vừa đi qua được Suez, còn các tàu cỡ lớn phải vòng qua Cape Hope. Đặc biệt, sau cuộc chiến tranh Trung Đông năm 1967, kênh đào Suez bị ngừng lưu thông 9 năm. Tầm quan trọng của tuyến đường qua mũi Hảo vọng càng rõ rệt.

Sau khi kênh đào Suez lưu thông trở lại, nơi đây vẫn là một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới. Hàng năm, khoảng 40.000 tàu bè qua lại mũi Hảo vọng, trong đó, một nửa là tàu nhập khẩu xăng dầu Tây Âu, 1/4 là tàu của Mỹ.

Tuyến đường vòng qua Cape Hope tuy quan trọng, nhưng vùng biển cạnh nó vẫn là nơi nguy hiểm có tiếng trên thế giới. Tàu thuyền chỉ cần sơ ý để cột buồm nghiêng hay lạc mái chèo thì nguy hiểm có thể xảy ra. Nguyên nhân của nó là phía nam Cape Hope là vùng có gió tây thổi mạnh, trên mặt biển rộng mênh mông không có gì che chắn nên làm sóng to nổi dậy.

Đi từ Cape Hope theo quốc lộ về phía bắc 52 km, sẽ gặp Cape Town, thành phố cảng nổi tiếng của Nam Phi. Năm 1652, công ty Đông Ấn Hà Lan đã xây dựng cứ điểm thực dân đầu tiên tại đây, đặt nền móng cơ sở cho thành phố. Sau đó một thời gian, thực dân Anh - Hà Lan không ngừng mở rộng các cơ sở vào sâu trong lục địa Nam Phi.

Khu “Thành phố góc biển” này nằm tựa lưng vào núi Yi Tebuer, nằm sát bên mép nước vịnh Tebuer. Phong cảnh nơi đây rất đẹp, địa hình thuận tiện. Núi Tebuer có độ cao trung bình so với mặt nước biển là 1.082 m, hay còn gọi là “núi bàn” vì đỉnh núi này bằng phẳng như mặt bàn. Khi mùa hè trời trong nắng ấm, trên bầu trời xanh thẳm bay đến một đám mây trắng bao trùm lên đỉnh núi, giống như phủ lên “cái bàn” ấy một tấm khăn trải bàn màu trắng. Nhìn từ xa, nó như một bức tranh sơn dầu hình khối trang nhã tĩnh lặng, làm người ta thấy lòng mình rộng mở, tinh thần sảng khoái vui tươi. Là tượng trưng của thành phố núi Tebuer, ngọn núi vẫn là miền núi tốt lành trong thâm tâm các nhà hàng hải vì càng gần ngọn núi có nghĩa là càng gần Cape Town, nơi thuyền bè có thể tiến hành bổ sung những thứ cần thiết hay sửa chữa tu bổ.

Vịnh Tebuer cũng có tên gọi từ núi Tebuer, có cảng rộng nước sâu, sóng lặng, gió yên, cùng lúc có thể đậu hơn 40 tàu biển cỡ lớn, là một vịnh cảng được thiên nhiên ưu đãi. Hai bên Tebuer còn có đỉnh Madagascar dốc đứng, núi Sư tử và núi Tín hiệu. Sở dĩ có tên Núi tín hiệu là do trước kia trên núi có đặt một trạm tín hiệu, mỗi khi tàu thuyền vào cảng thì treo cờ lên và bắn pháo để báo tin cho người trong thành phố

Giữa các núi và vịnh là khu phố cổ Cape Town, phần lớn là các công trình kiến trúc cổ đại thời kỳ thực dân Hà Lan thế kỷ 17 để lại như thành phố nhỏ Cape Town, nhà thờ Groot, quảng trường Green Point. Tất cả đều mang nét cổ kính, phong trần. Các cơ sở nghiên cứu giáo dục và địa điểm nghệ thuật như đại học Cape Town, đài thiên văn, kịch trường lộ thiên Meirateweile đều tập trung phân bố ở miền nam. Trên núi Tubuer còn xây dựng một vườn thực vật quốc gia và một viện bảo tàng.

(Theo sách Những nền văn minh thế giới)

Đặt chân lên Mũi Hảo vọng

Cách thành phố cảng du lịch Cape Town khoảng 48 km về hướng Tây Nam là Mũi Hảo vọng (Cape of Good Hope). Để đến được một trong hai nơi nổi tiếng nhất thế giới này (mũi thứ hai là Cape Horn ở Patagonia, Nam Mỹ, điểm giao tiếp giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương) là một điều thú vị.

áoad
Mũi Hảo vọng. (Ảnh: Capeoptions)

Bất kỳ ai tới nơi đây cũng sẽ hả hê vì có dịp chụp ảnh kỷ niệm bên cái bảng gỗ có khắc: “Vĩ độ 34° 49' 58 nam và kinh độ 20° 00' 12 đông - Cape of Good Hope”. Nó được cắm vào nền đất, bên dưới mỏm đá cao 256 m đâm trồi ra đại dương.

Những kim tự tháp nổi tiếng thế giới


Những kim tự tháp nổi tiếng thế giới



Các nhà chức trách Ai Cập đang trình quốc hội để thông qua một dự luật thu tiền bản quyền đối với việc sao chép di sản của Ai Cập, trong đó có kim tự tháp. Rất nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới đã được dựng theo hình dáng kim tự tháp ở Giza.

Nếu được các nhà lập pháp thông qua, Ai Cập sẽ giữ bản quyền các di sản cổ đại của họ và những cá nhân hay tổ chức nào muốn sao chép đều phải trả tiền. Nhân dịp này, hãy cùng nhìn lại những công trình kim tự tháp hoặc mô phỏng kim tự tháp nổi tiếng thế giới.


Một con lạc đà đi ngang qua kim tự tháp tại Giza (Ai Cập), công trình cổ nhất và duy nhất còn tồn tại trong số 7 kỳ quan thế giới cổ đại.


Tượng Sphinx trước một kim tự tháp cao chót vót khác ở Giza.


Một áp-phích quảng cáo cho vở kịch “Hairspray” bên ngoài khu liên hợp sòng bài, khách sạn với kiểu kiến trúc kim tự tháp độc đáo ở Las Vegas (Mỹ).


Kim tự tháp tại Memphis, bang Tennessee (Mỹ) là nơi thường tổ chức các hội nghị và sự kiện thể thao lớn.


Tòa nhà chọc trời Transamerica có kiểu dáng kim tự tháp ở San Francisco (Mỹ).


Đài tưởng niệm Ames, kim tự tháp lớn ở phía tây của thành phố Cheyenne, bang Wyoming (Mỹ) được hoàn thành vào năm 1882. Kim tự tháp này làm bằng đá granit, cao 18m, do công ty đường sắt Union Pacific xây dựng nhằm đánh dấu vị trí cao nhất của tuyến đường sắt xuyên lục địa.


Đài tưởng niệm hình kim tự tháp tại thành cổ Uxmal của người Maya thuộc Mexico ngày nay.


Trong nhiều năm, kim tự tháp cao 66m tại Cholula, Mexico được tin là kim tự tháp lớn nhất thế giới với chiều dài mỗi cạnh là 350m.


Kim tự tháp nổi tiếng Kukulkan của người Maya tại Chichen Itza thuộc trung tâm phía bắc bán đảo Yucatan, Mexico ngày nay.


Kim tự tháp Mặt trời” khổng lồ thuộc thủ đô Mexico City (Mexico), nơi thường diễn ra các lễ hội như lễ hội chào đón Xuân về.


Bảo tàng Louvre hình kim tự tháp do kiến trúc sư người Mỹ I.M. Pei thiết kế.


Thư viện hình kim tự tháp tại thành phố Ulm của Đức.


Kim tự tháp cao nhất châu Âu toạ lạc tại công viên giải trí Belantis ở Leipzig, Đức.


Đồi Visosica tại Visoko, Bosnia-Herzegovina. Semir Osmanagic, người đã nghiên cứu các kim tự tháp tại Mỹ Latin trong suốt 15 năm, tin rằng ngọn đồi này có thể chứa một kim tự tháp.

An Bình

Theo Spiegel, Dân trí